Tải trọng ngang là gì? Các công bố khoa học về Tải trọng ngang
Tải trọng ngang là khối lượng tối đa mà một hệ thống, máy móc hoặc cấu trúc có thể chịu đựng hoặc vận chuyển theo chiều ngang. Nó thường được đo bằng đơn vị khố...
Tải trọng ngang là khối lượng tối đa mà một hệ thống, máy móc hoặc cấu trúc có thể chịu đựng hoặc vận chuyển theo chiều ngang. Nó thường được đo bằng đơn vị khối lượng, chẳng hạn như kilogram, tấn hoặc pound. Tải trọng ngang quan trọng với các thiết kế và quyết định kỹ thuật liên quan đến việc tải trọng tối đa có thể đặt hoặc đảm bảo an toàn trong quá trình vận hành.
Tải trọng ngang là khối lượng tối đa mà một hệ thống hoặc cấu trúc có thể chịu đựng hoặc vận chuyển theo phương ngang mà không gây ra sự cố hoặc hỏng hóc. Nó thường được áp dụng cho các máy móc nâng hạ, cần cẩu, xe tải, cầu trục, cánh cửa trượt, cầu thang cuốn và nhiều ứng dụng công nghiệp khác.
Tải trọng ngang được xác định dựa trên tính toán và thử nghiệm kỹ thuật, trong đó các yếu tố như kết cấu, vật liệu và phụ kiện cần được xem xét. Nếu vượt quá tải trọng ngang cho phép, có thể xảy ra các vấn đề như làm hỏng cấu trúc, gãy, giảm tuổi thọ, mất an toàn và gây nguy hiểm cho người và tài sản xung quanh.
Các kỹ sư và nhà thiết kế thường tính toán tải trọng ngang bằng cách xem xét tất cả các yếu tố tác động lên hệ thống, bao gồm cả tải trọng tĩnh và tải trọng động. Tải trọng tĩnh là khối lượng mà hệ thống phải chịu đựng mà không có chuyển động, trong khi tải trọng động là khối lượng được tác động lên hệ thống trong quá trình di chuyển hoặc làm việc.
Khi xác định tải trọng ngang, các yếu tố như khối lượng của vật được nâng hoặc vận chuyển, khoảng cách từ trọng tâm đến trục vật liệu, mô men nhẹ về ngang và hướng động của vật cần được xem xét. Các tiêu chuẩn, mã quy và quy tắc an toàn có thể áp dụng để chỉ định giới hạn tải trọng ngang cho từng loại hệ thống hoặc ứng dụng cụ thể.
Rõ ràng, tải trọng ngang là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo an toàn và hiệu suất vận hành của các máy móc, hệ thống và cấu trúc. Việc tuân thủ và hiểu rõ các giới hạn tải trọng ngang là vô cùng quan trọng để tránh tai nạn và bảo vệ tài sản và người làm việc.
Khi xác định tải trọng ngang, cần xem xét một số yếu tố quan trọng:
1. Phân tích cấu trúc: Yếu tố đầu tiên cần được xem xét là phân tích cấu trúc của hệ thống hoặc cấu kiện. Điều này bao gồm nghiên cứu về tính toàn vẹn kỹ thuật của các thành phần, sức bền vật liệu và độ chịu lực. Từ đó, kỹ sư có thể xác định tải trọng ngang tối đa mà hệ thống hoặc cấu trúc có thể chịu đựng.
2. Tính toán và mô phỏng tải trọng: Sử dụng các công cụ tính toán và mô phỏng, kỹ sư có thể xác định tải trọng ngang tối đa mà hệ thống có thể chịu đựng dựa trên các thông số quan trọng như vị trí trọng tâm của khối lượng, mô men xoắn và các lực tác động. Các phương pháp tính toán có thể bao gồm phân tích tĩnh, phân tích động và mô hình hóa 3D.
3. Xác định tải trọng tĩnh và tải trọng động: Tải trọng ngang có thể chịu đựng đồng thời tải trọng tĩnh (khối lượng không di chuyển) và tải trọng động (khối lượng di chuyển). Ví dụ, khi nâng vật trên một cần cẩu, tải trọng tĩnh là khối lượng của vật, trong khi tải trọng động là khối lượng vật di chuyển trong quá trình nâng hạ. Cả hai yếu tố này cần được tính toán và xác định đối với thiết kế an toàn.
4. Tuân thủ các quy chuẩn và tiêu chuẩn: Trong quá trình xác định tải trọng ngang, cần tuân thủ các quy chuẩn và tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế và an toàn, chẳng hạn như quy chuẩn OSHA (Ủy ban An toàn Lao động Mỹ), tiêu chuẩn ANSI (Hội đồng Quốc gia về Tiêu chuẩn Mỹ) và các quy định kỹ thuật quốc gia và quốc tế. Các quy chuẩn này cung cấp hướng dẫn về tải trọng ngang tối đa cho từng loại hệ thống hoặc thiết bị cụ thể.
5. Kiểm tra và kiểm tra định kỳ: Để đảm bảo rằng hệ thống vẫn an toàn và tuân thủ tải trọng ngang đã xác định, cần tiến hành kiểm tra và kiểm tra định kỳ để đảm bảo rằng các thành phần và phụ kiện vẫn đáng tin cậy và không gặp trục trặc. Nếu có bất kỳ dấu hiệu nào của hư hỏng hoặc suy yếu, cần tiến hành các biện pháp sửa chữa hoặc thay thế phù hợp.
Tóm lại, tải trọng ngang là khối lượng tối đa mà một hệ thống, máy móc hoặc cấu trúc có thể chịu đựng và vận chuyển theo chiều ngang mà không gây ra sự cố hoặc hỏng hóc. Việc đánh giá, tính toán và tuân thủ các quy chuẩn và tiêu chuẩn an toàn là rất quan trọng để đảm bảo an toàn và hiệu suất vận hành.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tải trọng ngang":
Ba mươi hai bệnh nhân có gãy xương với kiểu gãy xoay-đi ngang (PLR) xảy ra cách khớp mắt cá chân bốn cm trở lên hoặc thấp hơn nếu xương chày bị lệch hơn một cm ra ngoài đã được tham gia vào nghiên cứu này. Mười bẩy bệnh nhân được phân ngẫu nhiên điều trị bằng cách cố định tấm xương chày với vít sinh học phân hủy 4.5 mm từ axit polylactic (PLA), trong khi mười lăm bệnh nhân còn lại được phân ngẫu nhiên điều trị bằng vít 4.5 mm bằng thép không gỉ.
Tất cả ba mươi hai bệnh nhân đều hồi phục gãy xương chày mà không có biến chứng và không mất độ giảm các đoạn. Không có dấu hiệu của hiện tượng tiêu xương hay tràn dịch vô trùng ở những bệnh nhân được điều trị bằng vít PLA. Không có biến chứng tại vết thương ở cả hai nhóm. Không có sự khác biệt nào về phạm vi chuyển động hoặc khiếu nại chủ quan được ghi nhận ở cả hai nhóm. Sử dụng vít sinh học PLA trong các buổi theo dõi ngắn hạn được dung nạp tốt và tránh được nhu cầu phải loại bỏ vít sau đó.
Đau lưng dưới (LBP) là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nổi bật gây ra tình trạng tàn tật trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc LBP đang gia tăng ở các quốc gia có thu nhập thấp đến trung bình. Ở Ấn Độ, tỷ lệ mắc LBP giữa dân số nông thôn và thành phố rất đa dạng, dao động từ 6,2 đến 92%. Đã có sự gia tăng đáng kể ở người trưởng thành trẻ tuổi mắc LBP, với một tỷ lệ chuyển đổi sang LBP mãn tính sau này trong cuộc sống. Những niềm tin liên quan đến bất kỳ rối loạn nào đều ảnh hưởng đến tiến trình, quản lý và nhu cầu thực hiện các nghiên cứu hình ảnh. Những niềm tin tiêu cực về LBP trong bất kỳ cộng đồng nào có thể dẫn đến sự căng thẳng tâm lý không cần thiết và gia tăng gánh nặng bệnh tật. Tập trung vào những niềm tin tiêu cực này đối với nhóm thanh niên có thể giúp hạn chế sự mãn tính và giảm bớt tình trạng tàn tật do nó gây ra. Nghiên cứu cắt ngang này đã khám phá sự tồn tại của những huyền thoại trong 516 thanh niên Ấn Độ đang theo học đại học tại Trường Đại học Lovely Professional.
Tổng cộng 516 cá nhân đã tham gia vào nghiên cứu. Tuổi trung bình (SD) của người tham gia là 22,69 tuổi (2,417). Trong số đó, 47,5% (245) là nữ và 52,5% (271) là nam. Các phát hiện cho thấy một tỷ lệ cao trong nhóm thanh niên đang theo học đại học có những niềm tin sai lầm trong hầu hết mười lĩnh vực (huyền thoại) được khám phá. Những huyền thoại phổ biến nhất là “LBP do cơ ‘cốt lõi’ yếu kém và có một cơ cốt lõi mạnh mẽ có thể bảo vệ chống lại LBP trong tương lai” (81,2%) và “LBP do tư thế kém khi ngồi, đứng hoặc nâng” với 80,6% đồng ý với điều này.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các huyền thoại về đau lưng dưới rất phổ biến trong nhóm dân số được nghiên cứu. Các phát hiện gợi ý rằng cần phải phát triển các chương trình giáo dục cộng đồng để giải quyết những huyền thoại này, từ đó giảm bớt gánh nặng bệnh tật liên quan đến đau lưng.
Ở những bệnh nhân đã trải qua quy hoạch ảo và phẫu thuật cấy ghép implant không vạt cho những răng thiếu ở vùng hàm trên phía trước, chúng tôi đã so sánh sự mất xương bên má giữa những người được điều trị có và không có ghép xương tự thân.
Trong số 22 bệnh nhân bị mất răng do chấn thương hoặc không có răng, 10 (18 vị trí cấy ghép) được tái tạo bằng cách ghép xương đặt bên má lấy từ gốc xương hàm dưới, và 12 bệnh nhân không được tái tạo (16 vị trí). Việc chụp cắt lớp vi tính hình nón ở thời điểm ban đầu đã cho phép lập kế hoạch cấy ghép sử dụng phần mềm NobelClinician®, và được thực hiện lại sau 1 năm sau khi nạp chức năng. Mức độ xương viền được đánh giá bằng phương pháp chụp X-quang tại thời điểm sau khi cấy ghép và tại lần theo dõi sau đó.
Ngày càng có nhiều bằng chứng về vai trò của liệu pháp vật lý trong đơn vị chăm sóc tích cực (ICU), nhưng tỷ lệ giới thiệu bệnh nhân để điều trị vật lý trong ICU vẫn thấp tại Nigeria. Nghiên cứu này nhằm đánh giá nhận thức của các chuyên gia y tế về phạm vi thực hành và kỹ năng của các nhà vật lý trị liệu trong việc quản lý bệnh nhân tại ICU của một số bệnh viện giảng dạy tại miền Nam Nigeria. Nghiên cứu là một khảo sát cắt ngang với sự tham gia của bảy mươi chuyên gia y tế làm việc tại ICU, những người đã hoàn thành một bảng hỏi điều chỉnh và được xác thực. Dữ liệu thu thập từ nghiên cứu cắt ngang được trình bày thông qua thống kê mô tả về trung bình, độ lệch chuẩn, phân phối tần suất và tỷ lệ phần trăm.
Tuổi trung bình của những người tham gia là 39,74 ± 7,08 tuổi. Đa số người tham gia có bằng cử nhân và đã làm việc tối thiểu 5 năm tại ICU, với tất cả người tham gia làm việc trong một ICU hỗn hợp và 46,7% làm việc tại những ICU có từ bốn đến sáu giường bệnh. Các nhà vật lý trị liệu (PT) không được phân công độc quyền cho ICU, và PT thường xuyên được báo cáo là làm việc theo yêu cầu trong hầu hết các ICU vào các ngày trong tuần và cuối tuần. Bệnh nhân được bác sĩ giới thiệu để điều trị vật lý. Các chuyên gia y tế có quan điểm tiêu cực về phạm vi hoạt động của PT trong việc hút dịch đường thở, khí dung, cai thở, và điều chỉnh máy thở, đặt nội khí quản, rút nội khí quản và thay ống mở khí quản cho bệnh nhân ICU. Người tham gia có quan điểm tích cực về kỹ năng đánh giá của PT tại ICU, ngoại trừ việc tính toán tình trạng hạ oxy máu, sẵn sàng cho việc cai thở và cần độ ẩm.
Các chuyên gia y tế làm việc tại ICU trong các bệnh viện được chọn có cả nhận thức tiêu cực và tích cực về một số lĩnh vực liên quan đến phạm vi thực hành và kỹ năng của PT trong việc quản lý bệnh nhân tại ICU.
- 1
- 2
- 3